Không ai đến toà cùng cô hôm đó, ngoài vị luật sư công được toà chỉ định.
Cô 18 tuổi, bị buộc tội một tiểu hình cấp trung, hình phạt có thể lên đến một năm trong tù.
Rất hiếm khi người ta chú ý đến những vụ tiểu hình. Trường hợp của cô chỉ là một trong 4,859 vụ tương tự năm 2008 ở Toà án Thành phố Lynnwood – cơ quan mà vị quan toà mô tả là hoạt động với mục đích “chấn chỉnh hành vi – để khiến Lynnwood trở nên tốt đẹp hơn, an toàn hơn, lành mạnh hơn cho mọi người cùng sinh sống, làm việc, mua sắm và du lịch.”
Nhưng tội tiểu hình của cô lại được báo chí đưa thành tin tức, và biến cô trở thành mục tiêu của những soi mói, hay tệ hơn, khinh miệt. Nó đã tước khỏi cô gái cuộc sống độc lập mới gây dựng, cuộc sống mà cô luôn mòn mỏi chờ đợi sau cả một phần đời vất vưởng qua những gia đình cha mẹ nuôi. Nó đã tước đi của cô giá trị của bản thân. Mỗi tiếng điện thoại đổ chuông là một lời thông cáo về một tình bạn nữa, sẽ mất đi. Một người bạn học từ lớp 10 cất công gọi chỉ để hỏi: Sao mày có thể bịa ra được chuyện kinh khủng như thế? Marie – tên đệm của cô, Marie – không đáp một lời. Cô chỉ lắng nghe, rồi dập máy. Ngay cả cha mẹ nuôi của cô cũng nghi ngờ cô. Chính cô cũng nghi ngờ cô, tự hỏi liệu trong đầu mình có gì đó bệnh hoạn, cần phải chữa trị gì không.
Trước đó, cô báo cảnh sát mình bị cưỡng hiếp trong căn hộ, bởi một người đàn ông, hắn đã trói và bịt miệng cô lại. Thế rồi, khi bị cảnh sát chất vấn cô về những tình tiết không thống nhất trong câu chuyện, cô đã thừa nhận đó có thể chỉ là một giấc mơ. Thế rồi cô thừa nhận mình đã bịa ra câu chuyện đó. Một bản tin truyền hình đã tuyên cáo, “Một phụ nữ ở Tây Washington đã thú tội mình nói dối về vụ cưỡng hiếp mà cô ta báo cảnh sát hồi đầu tuần.” Cô bị kết tội dựng chuyện khi báo cảnh sát, và cũng vì thế mà cô có mặt ở phiên toà ngày hôm nay, để chấp nhận hoặc từ chối thoả thuận nhận tội.
Chính luật sư của cô cũng ngạc nhiên khi thân chủ của mình bị truy tố. Câu chuyện của cô chưa làm phương hại đến ai – không có nghi phạm nào bị bắt, hay thậm chí không ai bị thẩm vấn. Ông đoán, cảnh sát đã cảm thấy bị lợi dụng. Họ không thích thời gian của mình bị hoang phí.
Bên công tố đề nghị thế này: nếu sang năm sau cô đáp ứng được một số điều kiện, mọi cáo buộc sẽ được bãi bỏ. Cô sẽ cần đi tư vấn tâm lý về chứng nói dối của mình. Cô sẽ chịu một thời kỳ thử thách theo dõi. Cô sẽ cần giữ hồ sơ sạch sẽ, không phạm thêm bất cứ tội gì. Và cô sẽ phải nộp 500 đô-la tiền án phí.
Marie muốn để chuyện này vào dĩ vãng.
Cô chấp nhận đề nghị.
HAI NĂM SAU, NGÀY 5 THÁNG 1 NĂM 2011
Ở GOLDEN, COLORADO
Hơn 1 giờ chiều của một ngày tháng Giêng lạnh lẽo năm 2011, Thanh tra Stacy Galbraith bước về phía các dãy nhà chung cư vô danh rải dài lác đác trên ngọn đồi thấp ở một ngoại ô của thành phố Denver. Tuyết đóng thành từng mảng trên mặt đất. Trời ảm đạm, lạnh như cắt da thịt. Chị đến để điều tra một vụ báo cưỡng hiếp cảnh sát mới nhận.
Galbraith nhìn thấy nạn nhân đang đứng đợi mình giữa vệt nắng mỏng bên ngoài căn hộ tầng trệt của cô. Một cô gái trẻ, mặc chiếc áo khoác nâu dài. Cô kẹp chiếc túi đựng đồ cá nhân ở tay. Cô nhìn bình thản, gương mặt không biểu cảm. Galbraith tự giới thiệu bản thân. Đội kỹ thuật viên của cảnh sát đang khám xét căn hộ. Galbraith gợi ý nạn nhân cùng mình vào trong chiếc xe tuần không gắn đèn hiệu gần đó để tạm lánh cái giá buốt giữa trời.
Người phụ nữ nói với Galbraith mình 26 tuổi, là sinh viên ngành kỹ sư ở một trường gần đây, đang trong kỳ nghỉ đông. Cô đã ở nhà một mình từ buổi tối hôm trước. Sau khi nấu đậu xanh ăn tối, cô chui vào trong chăn đề cày phim “Những Bà Nội Trợ kiểu Mỹ” và “The Big Bang Theory” cho đến khi ngủ thiếp đi. Khoảng 8h sáng, cô bị đánh thức bởi một người đàn ông. Hắn nhảy lên lưng cô, ghì chặt đầu cô xuống giường. Hắn đeo một chiếc mặt nạ màu đen, nhìn như một chiếc khăn quấn chặt quanh mặt hơn. Tay hắn cầm một khẩu súng đen bạc. “Cấm gào. Cấm kêu cứu không tao bắn,” hắn gằn giọng.
Hắn hành xử cẩn thận. Hắn trói cô lỏng tay ra sau lưng. Từ một chiếc túi đen lớn, gã đàn ông lôi ra đôi vớ đùi, đôi giày cao gót nhựa trong suốt gắn nơ hồng, lọ bôi trơn, một hộp khăn ướt và chai nước. Trong bốn tiếng đồng hồ sau đó, hắn cưỡng hiếp cô nhiều lần. Hắn dùng máy ảnh kỹ thuật số ghi lại vụ tấn công và doạ sẽ đăng ảnh lên mạng nếu cô dám gọi cảnh sát. Sau đó, hắn ra lệnh cho cô đi đánh răng và tắm rửa. Khi cô bước ra khỏi nhà tắm, gã đàn ông đã biến mất. Hắn đem theo chăn, ga giường,vỏ gối của cô. Cô còn nhớ rất rõ một chi tiết trên cơ thể hắn: một vết chàm đen trên bắp chân trái của hắn, cỡ bằng quả trứng.
Galbraith bàng hoàng lắng nghe lời kể của người phụ nữ. Hành vi tấn công ghê tởm; và kẻ tấn công cho thấy hắn có bài bản. Không thể lãng phí thêm phút giây nào nữa. Xích lại gần nạn nhân ở ghế trước xe ô tô, Galbraith cẩn thận dùng tăm bông quẹt nhẹ mặt người phụ nữ để thu thập bất cứ dấu vết DNA có thể còn sót lại. Đoạn chị chở cô gái đến bệnh viện St. Anthony North. Nạn nhân trải qua một đợt khám pháp y đặc biệt để thu thập thêm bằng chứng DNA. Trước khi đi theo một y tá, người phụ nữ cảnh báo Galbraith, “Tôi nghĩ hắn đã từng làm chuyện này rồi.”
Galbraith trở lại hiện trường. Một số điều tra viên và kỹ thuật viên đang bận bịu làm việc. Họ đến gõ cửa từng nhà hàng xóm, chụp ảnh bên trong căn hộ, sục sạo các thùng rác, tỉ mẩn cọ từng bức tường, cửa sổ, mọi nơi để kiếm DNA. Trên mặt tuyết, họ tìm thấy một vệt dấu chân dẫn vào và ra phía sau căn hộ qua một cánh đồng vắng. Họ phun sơn các dấu chân màu cam rực nổi bật rồi chụp ảnh chúng lại. Dấu vết cũng không nhiều. Nhưng cũng là có. Một viên cảnh sát xin phép nghỉ tay một chút. “Cứ làm tiếp đi!” Galbraith kiên quyết.
Trên đường về nhà hôm đó, tâm trí Galbraith không thể ngừng nghĩ ngợi. “Hắn ta là ai?” chị tự hỏi. “Mình tìm hắn cách nào đây?” Galbraith thường tự nguyện xin đảm trách các vụ hiếp dâm. Chị là một người vợ, người mẹ. Chị dễ thấu hiểu và đồng cảm với các nạn nhân – vốn chủ yếu là phụ nữ. Đa số bị tấn công bởi chính bạn trai, người tình cũ, hoặc ai đó họ gặp ở quán bar. Những vụ điều tra thường kết thúc ở điểm mấu chốt quan hệ có đồng thuận hay không. Người phụ nữ có nói “yes” không? Những vụ thế này thường khó nhằn cho cảnh sát và bên công tố. Quan toà cũng do dự không muốn tống ai đó vào tù chỉ dựa vào lời khai của một bên. Bị một người lạ cưỡng hiếp thường rất hiếm – chiếm khoảng 13% số vụ. Nhưng quan trọng vẫn là trong lời khai của người phụ nữ. Nạn nhân có đang nói sự thật? Hay lại là một âm mưu được dựng lên để lấp liếm một dịp mây mưa không vừa ý?
Cũng vì lẽ này, tội cưỡng hiếp không hề giống các tội phạm khác. Mức độ đáng tin cậy của nạn nhân thường cũng được đưa ra xem xét ngang ngửa với khả năng phạm tội của bị cáo. Và trong quá trình dài, gian nan giữa lúc gây án và khi kết án, người đầu tiên đứng ra kết luận ranh giới thật giả chính là cảnh sát. Một điều tra viên phải tìm ra cho được liệu nạn nhân có đang nói sự thật hay không.
Nguyên tắc của Galbraith rất đơn giản: lắng nghe và thẩm định lại. “Nhiều người cứ nói, “Hãy tin vào nạn nhân, phải tin vào nạn nhân chứ,” Galbraith nói. “Nhưng tôi lại không nghi đó là quan niệm đúng. Tôi nghĩ đáng ra nên là hãy lắng nghe nạn nhân. Rồi sau đó chứng thực hoặc bác bỏ dựa theo diễn biến tiếp theo đó.”
Ở nhà, chồng chị David đã rửa xong chén đĩa và cho con cái ngủ. Cả hai thả mình xuống hai chiếc ghế sô pha trong phòng khách. Galbraith kể lại những gì xảy ra trong ngày. Kẻ tấn công đã đủ xảo trá, cố tình xoá hết mọi dấu vết DNA ở hiện trường. Trước khi rời đi, hắn còn chỉ cho cô sinh viên cách hắn đột nhập vào nhà qua một cánh cửa kéo bằng kính. Hắn khuyên cô nên gắn chốt lề dưới cửa để tránh những kẻ khác đột nhập trong tương lai. Nạn nhân còn mô tả hắn là một “người lịch thiệp,” Galbraith nói. “Tên này, sẽ không dễ tóm hắn,” chị nghĩ.
David Galbraith đã quá quen với những câu chuyện tăm tối như này. Xét cho cùng, cả hai làm cùng ngành. Anh làm cảnh sát ở Westminster, cách đây khoảng 15 dặm về phía đông bắc. Golden và Westminster là khu dân ở cho tầng lớp trung lưu, nằm giữa khu trung tâm đầy nhà chọc trời của Denver và khu phố thị mới nổi Rockies.
Nhưng lần này có gì đó khác biệt với các vụ trước. Khi David lắng nghe, anh nhận ra những tình tiết của vụ án quen thuộc đến mức đáng sợ. Anh dặn vợ sáng sớm ngày mai phải gọi cho cục cảnh sát bên anh ngay.
LYNNWOOD, WASHINGTON
“Cô ta không nhớ mình có từng được đi học mẫu giáo.
Cô nhớ mình từng rất đói đến mức phải ăn đồ cho chó.
Cô trình bày mình bắt đầu được đưa vào diện chăm nuôi tạm thời (*) từ năm 6 hoặc 7 tuổi.”
(*) Foster care: dành cho những đứa trẻ xác định mồ côi, chưa được ai nhận làm con nuôi, sẽ do một số gia đình cha-mẹ-nuôi-tạm-thời chăm sóc khi chờ đợi, thường trong thời gian ngắn. Thực tế, nhiều trẻ phải luân chuyển qua nhiều gia đình tạm thời như vậy cho đến tuổi trưởng thành do không ai nhận làm con nuôi (adopt) – NN.
Hồ sơ về cuộc đời của Marie – do một chuyên gia sức khỏe tâm thần ghi chép sau khi phỏng vấn cô trong năm tiếng đồng hồ – được mô tả bằng một giọng văn lạnh lẽo thường thấy ở ngành y, về quãng thời gian trước khi cô bước vào cuộc đời chăm nuôi tạm thời…
“Cô từng gặp cha ruột một lần duy nhất.
Cô trình bày mình không biết nhiều về mẹ ruột của mình, theo lời cô người mẹ thường bỏ mặc cô cho những người bạn trai của bà trông.
Cô từng bị lạm dụng thể chất và tình dục.”
…và sau đó, có:
“những cá nhân trưởng thành nhận chăm nuôi cô tạm thời và những nhân viên chuyên dụng đến và đi trong cuộc đời cô, một số trải nghiệm đáng buồn hoặc lạm dụng, và thường xuyên thiếu vắng sự ổn định lâu dài.”
“Hồi còn nhỏ, tôi luân chuyển qua rất nhiều gia đình,” Marie kể trong một cuộc phỏng vấn. “Tôi cũng từng ở nhà tập thể. Khoảng hai nhà tập thể và chắc 10 hay 11 nhà nuôi tạm thời.”
“Tôi từng dùng khoảng bảy loại ma tuý, thuốc gây nghiện khác nhau. Và Zoloft, thuốc gây nghiện cho người lớn ấy – tôi dùng nó từ hồi lên 8.”
Marie có hai anh trai và một chị gái cùng mẹ khác cha. Thỉnh thoảng cô được xếp vào cùng gia đình foster care với anh chị. Nhưng thường họ bị tách riêng.
Chưa một ai giải thích cho cô vì sao cô bị luân chuyển, hay có chuyện gì đang xảy ra. Cô cứ thế chuyển từ nhà này qua nhà khác.
Khi Marie đến tuổi thiếu niên, những ngày tháng vất vưởng của cô tưởng như sắp kết thúc. Gia đình foster care quyết định sẽ nhận cô làm con nuôi. “Tôi thực sự rất yêu mến gia đình ấy, và tôi đã bắt đầu có bạn bè,” Marie kể.
Với nhiều học sinh, ngày đầu tiên vào phổ thông trung học thường đầy những lo lắng. Riêng Marie lại mong mỏi đến ngày ấy. Cô đã đăng ký tất cả những môn mình muốn học. Cô đã có được những mối quan hệ bạn bè người thân. Cô có được cảm giác mình thuộc về một nơi nào đó.
Nhưng vào ngày đầu tiên ấy, một tư vấn viên đến trường và thông báo với Marie rằng gia đình nuôi cô đã mất giấy phép cho diện foster care. Cô sẽ không được phép ở cùng họ nữa. Vị tư vấn viên không giải thích cụ thể gì thêm.
“Tôi chỉ biết khóc,” Marie nói. “Tôi được họ cho đúng 20 phút để đóng gói đồ đạc và cứ thế đi.”
Cho đến khi một giải pháp lâu dài được tìm ra, Marie được chuyển đến sống cùng Shannon và chồng bà ở Bellevue, vùng ngoại ô công nghệ đang phất lên phía đông Seattle. Shannon, một nhân viên bất động sản và đã làm foster mom nhiều năm, từng biết Marie trước đó qua vài buổi gặp gỡ với trẻ có quá khứ bất hảo, ở cô bà nhận thấy một cảm giác tình thân.
Cả hai cùng có cái gì đó “hơi ngố”, Shannon mô tả. “Chúng tôi đều có thể chọc quê nhau và cười đùa vui vẻ. Chúng tôi tính cách rất giống nhau.” Bất chấp tất cả những gì Marie từng trải qua, “tâm tính con bé không hề khó chịu,” Shannon nói. Marie luôn giữ liên lạc với những gia đình nuôi mình trước đó. Cô có thể trò chuyện đĩnh đạc với người lớn. Cô không để ai phải đẩy mình ra cửa mới chịu đến trường.
Nhưng dẫu rất yêu thương Marie, Shannon biết rằng vợ chồng bà không thể giữ cô bé, vì khi đó hai người đã nhận cưu mang một đứa trẻ khác vốn cần rất nhiều quan tâm chăm sóc. “Vợ chồng chúng tôi thực sự đã rất buồn vì không thể giữ con bé bên cạnh.” Shannon nói.
Marie chuyển ra khỏi nhà Shannon sau vài tuần để đến sống cùng Peggy Cunningham, một phụ nữ làm công tác bảo vệ quyền lợi trẻ em tại một mái ấm cho người vô gia cư và sống tại Lynnwood, một vùng ngoại ô nhỏ hơn cách Seattle 15 dặm về phía Bắc. Cô là đứa trẻ foster đầu tiên Peggy nhận cưu mang.
“Ban đầu tôi tưởng mình sẽ nhận nuôi một đứa bé baby. Tôi đã chuẩn bị hẳn một chiếc nôi rồi đó chứ – thế rồi họ đưa đến cho tôi một đứa 16 tuổi,” Peggy cười lớn nhớ lại. “Rồi mọi thứ cũng ổn. Tôi có sẵn nền tảng về sức khoẻ tâm lý và tôi có kinh nghiệm lâu năm làm việc với trẻ em. Mà tôi đoán phía nhân viên cũng nghĩ, “Peggy có thể lo liệu được.” Nên họ quyết thế.”
Ban đầu, Marie không muốn sống cùng Peggy. Marie vốn quen với việc sống cùng những đứa trẻ khác. Ở với Peggy cô chỉ có một mình. Marie thích chó. Peggy lại nuôi hai con mèo. “Tính tình hai bên hồi đầu cũng không hợp nhau nữa.” Marie nói. “Không dễ gì mà cả hai có thể kết thân. Với tôi lúc đó giống như người ngoài đánh giá tôi khác với những gì tôi tự ngẫm về bản thân vậy.”
Peggy nhận được một tập hồ sơ dày đến 5-7 cm ghi chép về tiểu sử lai lịch của Marie, bà đã ngạc nhiên khi thấy Marie đương đầu với quá khứ tốt như vậy. Marie thích các chàng trai, thích vẽ và âm nhạc, từ rock đến nhạc đồng quê, hay thậm chí nhạc phúc âm. “Con bé rất sôi nổi và tràn đầy năng lượng, nhưng thỉnh thoảng con bé có thể nổi xung lên.” Peggy nói. Giống như mọi đứa trẻ khác, Marie muốn hoà nhập với bạn đồng trang lứa. Cô chọn mua một chiếc áo khoác trắng nữ tính, phối với cổ áo lông thú vì cô tin đó là thời trang đang thịnh của các cô gái, nhưng rồi sau đó lại cất chiếc áo khoác trong tủ khi nhận ra đó không phải mốt.
Sau khi thấy ngôi trường phổ thông Marie đang theo học không thực sự phù hợp – “toàn những đứa chơi theo bè theo phái,” Peggy tả – Peggy đã tìm một ngôi trường khác cho cô. Marie ổn định cuộc sống. Cô vẫn liên lạc gần gũi với Shannon, đến mức Shannon đùa rằng bà và Peggy nuôi nấng Marie cùng nhau – Shannon sẽ là vị phụ huynh vui vẻ thoải mái (‘Đi bơi thuyền không?’), còn Peggy là vị phụ huynh nghiêm khắc kỷ luật (‘Nhớ về nhà trước…’).
Qua bạn bè, Marie quen Jordan Schweitzer, một học sinh trung học phổ thông làm thêm ở tiệm McDonald’s. Theo thời gian, cả hai chuyển từ tình bạn sang tình yêu. “Bạn ấy thực sự là một người tử tế bên cạnh. Luôn rất dễ chịu để cùng trò chuyện,” Jordan mô tả.
Marie nhận ra những năm tháng đẹp đẽ nhất cuộc đời mình là hồi cô mười sáu và mười bảy tuổi, và những ngày hạnh phúc nhất có lẽ là thời gian cùng người bạn thân nhất của mình, một học sinh trung học khác, khi bạn ấy dạy Marie về nhiếp ảnh.
“Tôi có khi dành hàng giờ liền trên bờ biển, ngắm hoàng hôn và mặt trời lặn, đó là một trong những sở thích của tôi. Tôi có một tấm ảnh do bạn ấy chụp mà tôi cực kỳ thích. Chúng tôi hôm ấy ra biển chơi, trời đã tầm 7 giờ tối gì đó, tôi không nhớ mình đã nghĩ gì, tôi cứ thế nhảy xuống biển rồi trồi lên mặt nước và hất ngược mái tóc ra sau.”
Thay vì học hết phổ thông, Marie ôn thi lấy bằng Phát triển Giáo dục Tổng quát (GED). Cô lên 17 tuổi, bắt đầu về khuya, làm Peggy lo lắng, khiến mối quan hệ hai người căng thẳng. Mùa xuân năm 2008, Marie tròn 18. Cô được phép ở lại với Peggy, quy định có cho phép vậy. Nhưng Marie muốn bắt đầu cuộc sống tự lập.
Peggy tìm trên mạng, thấy một chương trình thí điểm tên Project Ladder. Mới hoạt động được một năm, chương trình được xây dựng nhằm giúp những thanh niên lớn lên trong foster care chuyển sang sống độc lập. Họ có đội ngũ nhân viên phụ trách theo từng trường hợp, nhân viên này sẽ hướng dẫn cho các thanh niên tham gia chương trình những gì nên làm và không nên làm khi đi chợ, khi xử lý thẻ tín dụng, khi mua bảo hiểm. “Đều là những nguyên tắc cơ bản trong cuộc sống,” theo lời Marie. Hơn hết, Project Ladder cung cấp nhà ở trợ cấp, với mỗi thành viên được cấp một căn hộ một phòng ngủ.
“Đó là ơn trời ban,” Peggy nhớ lại.
Dù còn rất ít suất, nhưng Marie vẫn giành được một phần hỗ trợ. Cô có chút sợ hãi, nhưng mọi bối rối sợ sệt đều bị cảm giác tự hào át đi. Cô chuyển đến sống trong khu chung cư Alderbrooke, một khu phức hợp lát nhiều gỗ, được quảng cáo nằm gần một khu mua sắm và có view nhìn ra rặng núi Cascades. Cô cũng đã tìm được công việc đầu tiên, giới thiệu các món ăn thử ở Costco. Công việc đòi hỏi đứng suốt sáu tiếng không làm cô khó chịu. Cô thích trò chuyện cùng mọi người, thoát khỏi áp lực phải bán được hàng.
Rất nhiều đứa trẻ, bị hoàn cảnh vùi dập, cuối cùng rơi vào nghiện ngập hoặc trại giam. Riêng Marie đã vượt qua hết những cạm bẫy đó.
“Sống tự lập khi đó thật tuyệt vời, không phải gò ép theo các quy định như hồi tôi còn sống ở các gia đình foster,” Marie nói. “Cảm giác như là, tự do vậy.”
“Cực kỳ tuyệt vời.”
NGÀY 6 THÁNG 1, 2011
GOLDEN, COLORADO
Buổi sáng sau vụ cưỡng hiếp ở Golden, Galbraith hối hả đến văn phòng, và làm theo lời chồng dặn. 9 giờ 7 phút, chị gửi một email đến Cục Cảnh sát Westminster. Tựa đề thư ghi “Tấn công tình dục tương tự?”
Điều tra viên ở Westminster, tên Edna Hendershot vừa mới an vị vào chỗ ngồi với ly Starbuck như thường lệ: cỡ Venti, lớp sữa ở dưới, lớp macchiato caramel ở trên. Chị bấm mở email và tâm trí lập tức bị kéo tuột về 5 tháng trước đó, vào một ngày Thứ Ba khô nồng của tháng 8 năm 2010. Chị tiếp nhận cuộc gọi cảnh sát về một vụ cưỡng hiếp tại một khu chung cư cho dân lao động ở góc tây bắc của thành phố. Một người phụ nữ 59 tuổi kể lại bà đang ngủ trong nhà thì một người đàn ông nhảy lên lưng. Hắn ta đeo một mặt nạ đen. Hắn trói tay bà lại. Hắn chôm chiếc máy ảnh Sony Cyber-shot màu hồng của bà và dùng nó để chụp ảnh bà lại. Xong xuôi, hắn bắt bà đi tắm. Hắn dùng chiếc đồng hồ báo giờ trong bếp để cài thời gian bà được phép bước ra khỏi nhà tắm. “Tôi nghĩ trong tương lai bà không nên để cửa sổ mở nữa,” gã đàn ông nói với người goá phụ mới mất chồng không lâu.
Còn nữa. Hendershot nhớ khi đang điều tra về vụ án này, một cảnh sát khác đã báo với chị về một vụ khác vào tháng 10 năm 2009 ở Aurona, vùng ngoại ô phía bên kia Denver. Ở đó, một phụ nữ 65 tuổi báo với cảnh sát rằng bà bị cưỡng hiếp trong căn hộ của mình bởi một người đàn ông quấn khăn đen quanh mặt. Hắn trói tay bà bằng một chiếc ruy băng. Hắn chụp ảnh bà lại và doạ sẽ đăng lên mạng. Trong khi tấn công, hắn quật đổ một con gấu bông vàng trên bàn phòng ngủ của bà. “Cậu nên tìm giúp đỡ,” nạn nhân, làm quản lý hội nam sinh viên địa phương, nói với gã đàn ông. “Giờ thì đã quá muộn rồi,” hắn đáp.
Cảnh sát thường kín tiếng về các vụ án của mình, do e ngại rằng thông tin nếu rò rỉ có thể ảnh hưởng đến quá trình điều tra. Họ thường không biết đến, hoặc không biết sử dụng, một hệ thống dữ liệu do FBI xây dựng từ nhiều năm trước nhằm tóm những kẻ phạm tội nhiều lần. Các nghiên cứu đã chỉ ra khoảng một phần tư đến hai phần ba những kẻ hiếp dâm là tội phạm nhiều lần.
Nhưng Hendershot ngay lập tức đã nhìn ra được tiềm năng của việc kết hợp phá án và việc sử dụng mọi công cụ có thể. “Hai ba cái đầu có khi vẫn tốt hơn một, phải không?” Chị nói. Galbraith cũng đồng quan điểm. Cục cảnh sát của chị khá nhỏ – chỉ khoảng hơn 40 nhân viên phục vụ cho một thị trấn 20.000 dân. Nên sẽ càng hiệu quả hơn khi các lực lượng phối hợp. “Tôi chẳng thấy có vấn đề gì khi mình chìa tay xin giúp đỡ,” Galbraith nói. “Hãy cùng nhau làm mọi thứ có thể để tóm hắn.”
Một tuần sau đó, Galbraith, Hendershot và Điều tra viên của Aurora tên Scott Burgess ngồi lại quanh bàn họp ở sở cảnh sát Westminster. Họ so sánh các vụ điều tra. Những mô tả về kẻ tấn công đều tương tự nhau. Phương pháp của hắn cũng vậy. Nhưng có một điểm chốt: người phụ nữ trong vụ của Galbraith đã giữ tập trung trong quá trình bị tấn công, cố ghi nhớ các chi tiết. Bà nhớ được chiếc máy ảnh hắn dùng để chụp. Đó là một chiếc Sony hồng – chi tiết trùng khớp với mẫu máy ảnh bị cuỗm khỏi căn hộ của nạn nhân ở Westminster.
Galbraith và Hendershot không hề quen biết nhau cho đến buổi gặp mặt. Nhưng cuộc săn lùng kẻ cưỡng hiếp này đã đoàn kết họ lại. Là nữ cảnh sát, cả hai cùng là thành viên của hội sinh viên nữ hoạt động trong một hội nam sinh lớn. Tỷ lệ nữ giới trong đội ngũ hành pháp ở Mỹ trung bình là 13%. Các chức vụ cao trong ngành vẫn đa phần nam chiếm ưu thế, thường theo phong cách gia trưởng hoặc quân phiệt. Nhưng cả hai người phụ nữ đều đã tạo được chỗ đứng cho mình. Họ đã có thăng tiến cao trong hàng ngũ.
Hai người thân thiết nhanh chóng và dễ dàng. Cả hai cùng cởi mở. Họ chọc nhau những câu đùa ngắn và cùng phì cười. Galbraith trẻ tuổi hơn. Chị năng nổ, tràn đầy năng lượng. Chị có thể lao “cả trăm dặm một giờ về một phía,” một đồng nghiệp mô tả. Hendershot lại trải đời hơn. Trong sự nghiệp, chị đã điều tra đến hơn 100 vụ cưỡng hiếp. Cẩn trọng, chăm chỉ, chuẩn xác – chị bù trừ cho Galbraith. “Đôi khi, vì mải mê lao trăm dặm một giờ, người ta dễ bỏ sót một vài dấu vết,” đồng nghiệp kia chỉ ra.
Những nỗ lực đầu tiên của họ để xác định danh tính kẻ tấn công sớm rơi vào bế tắc. Cảnh sát Golden lấy được một đoạn video giám sát ở lối ra vào của khu chung cư mà nạn nhân của Galbraith tấn công. Một điều tra viên đã ngồi xem hết đoạn video 12 tiếng mờ tịt. Anh tỉ mẩn đếm được 261 phương tiện và người ra vào trong buổi tối xảy ra án. Có một đầu mối khả dĩ. Vào tầm giờ trước bình minh, một chiếc xe bán tải Mazda trắng đã xuất hiện 10 lần. Đó có thể là kẻ tấn công đang đợi nạn nhân ngủ say? Nhưng những nỗ lực xác định chủ chiếc xe đều thất bại. Biển xe quá mờ để đọc được con số.
Nhiều tuần bắt đầu trôi qua, thế bế tắc vẫn chưa được giải. Hendershot chuyển hướng sang cơ sở dữ liệu được thiết kế để bắt được các thủ phạm cưỡng hiếp nhiều lần bằng cách kết nối nhiều vụ án ở các cơ quan xét xử khác nhau. Cách này lại dẫn đến những bế tắc khác. Cảm giác nản lòng tăng lên. “Sẽ có nạn nhân nào đó tiếp tục bị hại mất,” Galbraith nghĩ, càng thêm lo lắng.
Đến cuối tháng Một, nhóm điều tra quyết định mở rộng phạm vi. Hendershot nhờ một nhân viên phân tích tội phạm trong cục cảnh sát của mình rà soát ở những cơ quan khác trong vùng để tìm các vụ tương tự. Người này mò được thông tin một vụ án nữa tại Lakewood, một ngoại ô của Denver, xảy ra khoảng một tháng trước vụ Westminster. Thời điểm đó, cảnh sát xếp loại vụ tấn công này là một vụ đột nhập. Nhưng với diễn biến mới này, vụ án rất có vẻ là một vụ cưỡng hiếp bất thành, thực hiện bởi một gã tấn công có cùng mô tả với kẻ cưỡng hiếp hai người đang theo đuổi. Vị phân tích viên nhắn cho Hendershot một tin nhắn, “Chị cần qua gặp tôi ngay bây giờ.”
Bản báo cáo ghi chi tiết vụ một nữ nghệ sĩ 46 tuổi bị một người đàn ông dùng dao khống chế tại tư gia. Hắn ta đeo một chiếc mặt nạ đen. Hắn đã cố trói quặt khuỷu tay nạn nân. Nhưng trong một khoảng khắc gã đàn ông quay đi, người phụ nữ đã kịp vùng nhảy qua cửa sổ phòng ngủ. Cô bị gãy ba chiếc xương sườn và dập một bên phổi sau cú rơi từ độ cao 2 mét, nhưng bù lại cô đã thoát thân.
Các điều tra viên tại hiện trường đã phát hiện ra một vài dấu vết khó hiểu. Cơn mưa giông đã làm ướt khu vực quanh hiện trường trước khi vụ tấn công xảy ra. Cảnh sát tìm thấy dấu giày trên nền đất ẩm ướt bên ngoài phòng ngủ của người phụ nữ. Trên một cửa sổ, họ tìm thấy dấu hoa văn tổ ong.
Những dấu tổ ong. Hendershot chộp lấy đầu mối này. Các điều tra viên hiện trường vụ Westminster cũng phát hiện ra những dấu vết tương tự trên cửa sổ căn hộ của nạn nhân. Hendershot yêu cầu kiểm tra so sánh. Dấu vết tại hai hiện trường vụ án trùng khớp nhau. Chúng cũng trùng với dấu in từ một mẫu găng tay hiệu Under Armour mà một điều tra viên của Lakewood, theo một linh tính, đã phát hiện ra khi đi mua đồ ở một cửa hàng thể thao hãng Dick’s Sporting Goods.
Galbraith kiểm tra các dấu chân để lại tại hiện trường Lakewood. Chúng khớp với những dấu chân trên tuyết bên ngoài căn hộ của nạn nhân ở Golden. Chị đăng tải hình ảnh của các dấu giày lên trang crimeshoe.com, một trang web hứa hẹn có khả năng “từ một tấm ảnh dấu giày không xác định tại hiện trường vụ án có thể cung cấp đầy đủ thông tin chi tiết đôi giày/dép đó chỉ qua một bước đơn giản”. Trang web, nay đã dừng hoạt động, xác định những dấu giày kia là từ một đôi giày lưới Adidas ZX 700, được bày bán tại các cửa hàng từ tháng 3 năm 2005.
Đến cuối tháng 1 năm 2011, nhóm điều tra kết nối bốn vụ hãm hiếp xảy ra trong khoảng thời gian 15 tháng ở các vùng ngoại ô của Denver. Chuỗi vụ án bắt đầu ở Aurora, phía đông Denver, vào ngày 4 tháng 10 năm 2009, nạn nhân là một người phụ nữ 65 tuổi. Chuỗi án tiếp tục chín tháng sau đó, ở 22 dặm về phía tây, khi kẻ cưỡng hiếp tấn công cô nghệ sĩ ở Lakewood. Một tháng sau đó góa phụ 59 tuổi bị hãm hiếp ở Westminster, khoảng 10 dặm về phía bắc. Và cuối cùng, vào tháng 1 năm 2011 đến cuộc tấn công đối với cô gái sinh viên 26 tuổi ở Golden, khoảng 15 dặm về phía tây nam của Westminster. Nếu điểm các vụ việc lên một tấm bản đồ, bạn sẽ thấy kẻ hiếp dâm như đang đi một vòng qua các hướng đông tây nam bắc quanh Denver.
Galbraith và Hendershot chuyển sang công cụ DNA để xác định kẻ hiếp dâm hàng loạt này. Nhóm điều tra đã nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ hiện trường vụ án của họ. Các kỹ thuật viên đã quét từng khung cửa sổ, tay nắm cửa, thậm chí cả chốt giật nước trong nhà vệ sinh – bất cứ thứ gì mà kẻ tấn công có thể đã chạm vào. Nhưng thủ phạm rõ ràng đã quen thuộc với cách điều tra của đội hành pháp, thậm chí có khả năng đó là một cảnh sát. Hắn biết cách tránh để lại DNA của mình tại hiện trường. Hắn dùng khăn ướt để lau sạch tinh trùng. Hắn ra lệnh cho những phụ nữ đi tắm sau khi tấn công họ. Hắn đem theo quần áo và chăn gối, ga trải giường của họ khi rời đi.
Hắn hành xử cẩn trọng đến tinh vi. Nhưng không hoàn hảo. Kẻ tấn công đã để lại những dấu vết nhỏ nhất của mình. Các kỹ thuật viên đã phục hồi ba mẫu DNA thủ phạm để lại sau khi tiếp xúc, gọi tắt là DNA tiếp xúc, là chỉ có bảy hoặc tám tế bào da có thể được phân tích bằng các kỹ thuật phòng thí nghiệm hiện đại.
Cảnh sát đã thu thập được một mẫu DNA từ chiếc đồng hồ căn giờ trong bếp ở Westminster. Mẫu thứ hai đến từ cơ thể nạn nhân ở Golden. Và một mẫu nữa trên chú gấu bông ở vụ Aurora.
NGÀY 11 THÁNG 8 NĂM 2008
ĐỊA ĐIỂM: LYNNWOOD, WASHINGTON
Vài phút trước 9 giờ sáng thứ Hai, hai cảnh sát điều tra tại Lynnwood đến khu chung cư Alderbrooke sau cuộc gọi báo cảnh sát về một vụ cưỡng hiếp. Một số cảnh sát đã có mặt ở đó, bảo vệ hiện trường vụ án. Một sĩ quan K-9 đang làm công tác dò tìm ở bên ngoài, chú chó nghiệp vụ của anh cố gắng đánh hơi bất cứ mùi lạ nào quanh đó.
Hai điều tra viên, Thượng sĩ Jeffrey Mason và Jerry Rittgarn, tìm thấy nạn nhân, Marie, ngồi trên một chiếc ghế dài, người quấn chăn, và cô đang chỉ biết khóc và khóc. Cạnh cô là mẹ nuôi Peggy Cickyham và kế đó là Wayne Nash, nhân viên phụ trách cô trong Project Ladder.
Marie, 18 tuổi ba tháng, thuật lại với cảnh sát rằng cô đã nói chuyện điện thoại với bạn mình Jordan gần như cả đêm. Sau đó, cô ngủ thiếp đi, và cuối cùng bị đánh thức bởi một người đàn ông, hắn dí dao vào người cô dao – và sau đó trói cô lại, bịt mắt và miệng cô và hãm hiếp cô. Hắn có đeo bao cao su, cô tin là vậy. Về phần ngoại hình của kẻ tấn công, Marie chỉ có thể cung cấp rất ít chi tiết. Một gã da trắng, mặc áo len xám. Vụ tấn công dường như kéo dài rất lâu, Marie kể với cảnh sát, nhưng cô không thể nói chắc. Mọi việc trong đầu cô rất nhoà ảo.
Marie kể rằng sau khi kẻ cưỡng hiếp rời đi, cô đã xoay sở dùng chân để lấy chiếc kéo từ ngăn tủ dưới cùng; cô tự cắt dây giải thoát mình, rồi cố gắng gọi Jordan. Khi Jordan không nghe máy, Marie lại gọi cho mẹ nuôi, và sau đó kêu cứu hàng xóm lầu trên, chính hàng xóm là người đã xuống căn hộ của Marie và gọi cho 911.
Thượng sĩ Mason, khi đó 39 tuổi, kinh nghiệm chủ yếu là công tác tuần tra và điều tra ma túy. Cơ quan hành pháp anh gắn bó lâu nhất là một sở cảnh sát nhỏ ở Oregon, anh công tác ở đó gần chín năm và nhận một huy chương danh dự. Anh được sở cảnh sát Lynnwood huy động vào năm 2003 và phục vụ trong một đội đặc nhiệm ma túy. Mason được thăng cấp thượng sĩ – và được chuyển đến Đội điều tra hình sự – sáu tuần trước cuộc gọi báo cảnh sát về vụ tấn công của Marie. Trước đây anh ta mới chỉ tham gia điều tra một hai vụ cưỡng hiếp. Nhưng tới vụ này, anh được giao làm chỉ huy điều tra.
Còn Rittgarn đã công tác ở sở Lynnwood 11 năm, trong đó bốn năm gần đây anh được bổ nhiệm làm điều tra viên. Trước công việc này, anh từng làm kỹ thuật viên trong ngành hàng không vũ trụ. Trước đó nữa, anh từng phục vụ trong Thủy quân lục chiến, chuyên về máy bay trực thăng hàng không.
Sở cảnh sát Lynnwood có 79 sĩ quan tuyên thệ, địa bàn phục vụ là một thành phố khoảng 34.000 dân. Năm 2008, vụ án của Marie là một trong 10 vụ hiếp dâm mà sở phụ trách; với nhân lực ít ỏi, Phòng Điều tra Tội phạm đã không có một đơn vị tội phạm tình dục chuyên trách.
Vào thời điểm tấn công của Marie xảy ra, các chuyên gia đã phát triển những bộ quy tắc chuẩn mực cho ngành điều tra tội phạm tình dục, xác định rõ những thách thức và tính chất nhạy cảm khi điều tra các vụ hiếp dâm. Những hướng dẫn này, có sẵn cho tất cả các sở cảnh sát, ghi rõ những sai lầm phổ biến của cảnh sát.
Bản hướng dẫn nêu rõ các điều tra viên KHÔNG nên định kiến rằng: nạn nhân thực sự phải hoảng loạn mới đúng, thay vì bình tĩnh, hay nạn nhân phải cho thấy dấu hiệu rõ ràng của chấn thương thể chất; và nạn nhân phải chắc chắn, nhớ rõ từng chi tiết vụ việc. Một số nạn nhân nhầm lẫn những chi tiết có vẻ hiển nhiên, hoặc thậm chí là rút lại lời khai. Cảnh sát cũng không nên lạc vào việc quy chụp những hình mẫu định kiến – ví dụ như tin rằng người trưởng thành sẽ uy tín hơn nạn nhân tuổi thanh thiếu niên.
Cảnh sát không nên thẩm vấn nạn nhân hoặc đe dọa sử dụng thiết bị phát giác nói dối. Các bài kiểm tra nói dối đặc biệt không đáng tin cậy với những người đã bị chấn thương tâm lý, và có thể hủy hoại niềm tin của nạn nhân đối với công tác hành pháp. Nhiều bang đã cấm cảnh sát sử dụng biện pháp này với nạn nhân hiếp dâm.
Cảnh sát khi dò quét quanh căn hộ của Marie đã phát hiện ra cửa kính trượt phía sau đã bị mở khóa và vẫn còn hơi hé ra. Cánh cửa dẫn đến một lối hiên sau, với một lan can bằng gỗ phủ đầy bụi bẩn – ngoại trừ một mảng khá sạch rộng gần 1 mét, giống như ai đó đã quẹt qua bề mặt khi trèo qua. Trên giường, cảnh sát tìm thấy một sợi dây giày – có lẽ được sử dụng để trói Marie. Trên màn hình máy tính, họ tìm thấy sợi dây giày thứ hai, được buộc vào một cặp đồ lót, rõ ràng dùng để bịt mắt hoặc bịt miệng. Cả hai sợi dây buộc đều đến từ đôi giày tennis màu đen của Marie, trong phòng khách. Bên cạnh giường là một con dao cán đen. Marie nói rằng con dao là của cô – rằng nó từ nhà bếp và là vũ khí mà kẻ hiếp dâm đã sử dụng để đe dọa cô. Cảnh sát tìm thấy giỏ của Marie trên sàn phòng ngủ, ví của cô trên giường và giấy phép lái xe tạm thời cho người đang tập lái – vì một lý do nào đó đã bị móc ra khỏi chiếc ví – bị quăng trên bệ cửa sổ phòng ngủ.
Thượng sĩ Mason nói với Marie rằng cô cần phải đến bệnh viện để kiểm tra tấn công tình dục. Sau khi Marie rời đi cùng với mẹ nuôi và người phụ trách, các điều tra viên ở lại tiếp tục xử lý hiện trường. Cố gắng tìm kiếm một bao cao su hoặc vỏ bao, Rittgarn kiểm tra phòng tắm, thùng rác và cả vạt sườn đồi gần nhà, nhưng trở về tay trắng. Chú chó nghiệp vụ, ở bên ngoài hiện trường, đã lần theo dấu vết mùi hương về phía nam, tới một tòa nhà văn phòng, nhưng không thể đưa các sĩ quan đến bất kỳ đầu mối khả dĩ nào có thể xác định được kẻ hiếp dâm.
Tại bệnh viện, nhân viên y tế đã dùng hơn một chục miếng gạc thu thập dấu vết từ cơ thể Marie. Họ tiến hành xét nghiệm viêm gan, bệnh lây qua đường tình dục chlamydia, HIV. Marie cũng được cho dùng kháng sinh Zithromax và Suprax vì có nguy cơ phơi nhiễm các bệnh tình dục, và uống thuốc tránh thai khẩn cấp.
Hồ sơ y khoa ghi nhận các vết xước ở cổ tay và âm đạo của Marie. Vết bầm tím trên cổ tay phải của cô đo được dài 6,5 cm, và bên trái là 7 cm.
Trong quá trình xét nghiệm, hồ sơ y khoa cho biết, Marie tỏ ra “tỉnh táo và sáng suốt, và không có dấu hiệu cụ thể của đau đớn.”
Vào ngày cô báo cảnh sát mình bị hãm hiếp, Marie gọi điện cho Shannon, mẹ nuôi cũ của mình, sau khi trở về từ bệnh viện. “Con bé gọi và nói: Con đã bị cưỡng hiếp’,” Shannon nhớ lại. “Con bé không thể hiện bất kỳ cảm xúc gì. Giống như nó chỉ đang kể với tôi rằng nó mới làm một chiếc bánh sandwich vậy.” Chính thái độ bình thản, không tỏ ra kích động, thậm chí buồn bã, của Marie đã khiến Shannon nghi ngờ liệu Marie có đang nói thật.
Ngày hôm sau, Shannon đến gặp Marie tại căn hộ, mối nghi ngờ càng tăng lên. Trong bếp, khi Shannon bước vào, Marie không hề nhìn vào mắt bà. “Điều đó rất kỳ lạ,” Shannon nói. “Bình thường chúng tôi luôn ôm chào nhau và con bé sẽ nhìn thẳng vào mắt tôi.” Khi vào phòng ngủ, Marie vẫn tỏ ra bình thường, không có dấu hiệu nào cho thấy rằng một sự việc khủng khiếp vừa mới xảy ra ở đó. Khi ra ngoài, Marie “nằm trên bãi cỏ, lăn lộn và khúc khích và còn cười lớn,” Shannon nói. Và khi hai người đi mua bộ chăn giường mới – bộ cũ của Marie đã bị cảnh sát giữ làm bằng chứng điều tra – Marie bỗng nổi đoá khi không thể tìm thấy bộ tương tự. “Tại sao có người sau khi bị hãm hiếp trên chính một bộ chăn giường lại muốn dùng một bộ chăn và trải giường giống hệt nó, rồi phải nhìn thấy nó mỗi ngày?” Shannon đã tự hỏi.
Peggy cũng vậy, bà cũng thấy khó hiểu trước thái độ kỳ quái của Marie. Khi Marie gọi bà vào ngày xảy ra vụ việc, trước khi cảnh sát đến, “con bé đã khóc lóc rất nhiều và tôi gần như không thể nghe nổi một lời,” Peggy nói. “Giọng con bé cứ léo nhéo như này, và tôi thực sự không mô tả nổi. Với tôi nó nghe không thật chút nào…. Nó nghe rất kịch, ra chiều thảm thiết, kiểu kiểu vậy.” Ở thời điểm đó, Peggy mới nhận nuôi hai đứa trẻ mới – hai chị em, đều ở tuổi teen. Không lâu trước đó, Marie đã cùng với Peggy và hai đứa em mới và bạn trai của Peggy đi dã ngoại. Theo cảm nhận của Peggy, Marie có vẻ đã dành cả buổi chiều hôm đó để cố thu hút sự chú ý của bà – đến nỗi giờ đây, Peggy tự hỏi liệu vụ này có lại giống như vậy không, chỉ là ở mức tuyệt vọng hơn.
Vội vã đến căn hộ ngay sáng hôm đó, Peggy tìm thấy Marie đang nằm trên sàn nhà, khóc. “Nhưng có cái gì đó rất lạ, vì khi tôi ngồi xuống bên cạnh con bé, và lúc Marie đang kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra, bỗng dưng tôi có cảm giác – mà bình thường tôi cũng là fan bự của phim Law & Order nữa (phim truyền hình Mỹ, kiểu Cảnh sát Hình sự của Việt Nam – N N), tôi cứ có cảm giác thực sự kỳ lạ làm sao đó,” Peggy nói. “Nó giống như… tôi thấy như con bé chỉ đang ngồi kể cho mình nghe kịch bản của một tập phim Law & Order vậy.” Một phần là vì những chi tiết khó tin mà Marie kể. Tại sao một kẻ hiếp dâm lại dùng dây giày để trói? Và một phần là vì cách Marie mô tả lại: “Con bé tỏ ra dửng dưng và chẳng có chút cảm xúc.”
Hai người phụ nữ từng giúp nuôi Marie gọi điện thoại cho nhau. Peggy nói với Shannon rằng bà có cảm giác nghi ngờ về chuyện này. Shannon đáp bà cũng vậy. Cả hai đều chưa từng thấy Marie là kẻ nói dối bao giờ – dù con bé có đôi lúc hơi làm quá, đúng, để gây chú ý, cũng đúng thôi – nhưng bây giờ, cả hai người đều thấy mình không đơn độc khi nghi ngờ khả năng Marie dựng chuyện.
Vào ngày 12 tháng 8, một ngày sau khi Marie báo cảnh sát cô bị hãm hiếp, điện thoại của Thượng sĩ Mason reo. Đầu dây bên kia nói họ “từng biết đến hành vi cố gây chuyện để được chú ý của [Marie] trong quá khứ, và người này đang nghi ngờ khả năng ‘vụ hiếp dâm’ có thực sự xảy ra hay không,” Mason đã viết báo cáo lại sau đó.
Trong báo cáo Mason không ghi rõ được người gọi là ai – nhưng đó chính là Peggy.
Bà đã gọi cảnh sát để chia sẻ những hoài nghi của mình. Mason sau đó đến nhà bà để phỏng vấn lấy lời khai. Khi kể với cảnh sát về mối nghi ngờ của mình, bà đã yêu cầu cảnh sát giữ kín danh tính của mình. “Tôi làm chuyện này không phải để hại Marie,” Peggy giải thích. “Thật ra tôi chỉ cố gắng làm một công dân tốt. Tôi không muốn [cảnh sát] lãng phí nguồn lực vào những chuyện drama cá nhân ngớ ngẩn người ta tự dựng lên.”
Ngoài ra, Mason còn nhận được một thông tin bên lề rằng Marie vốn không hài lòng với căn hộ của mình. Có thể cô ấy dựng chuyện bị hãm hiếp để được chuyển sang một căn hộ mới.
Vào ngày 13 tháng 8, Marie đã gặp Mason tại đồn cảnh sát Lynnwood và nộp một bản tường trình, mô tả những gì đã xảy ra. Tường trình chỉ dài một trang. Nhưng với Mason, trong đó có chứa một đoạn quan trọng. Marie kể rằng kẻ tấn công nói cô có thể tự cởi trói cho mình sau khi hắn ta biến mất:
“Sau khi hắn rời đi, tôi dùng miệng với lấy điện thoại của mình (nằm ngay cạnh đầu tôi) và tôi cố gắng gọi lại cho Jordan. Anh ấy không trả lời nên tôi gọi mẹ nuôi của tôi…. Bà ấy đã lập tức sang nhà tôi. Tôi dập máy và cố gắng tự cởi trói cho mình.”
Điều này không khớp với những gì Marie từng thuật lại với Mason. Trước đó, cô nói với vị điều tra viên là mình đã cố gọi cho Jordan sau khi cắt dây trói. Còn trong bản tường trình này, cô mô tả mình gọi anh ta trong khi vẫn đang bị trói.
Cuối ngày hôm đó, Mason nói chuyện với Rittgarn, đồng đội điều tra và nói rằng – dựa trên những mâu thuẫn trong lời khai của Marie, và dựa trên những gì anh ta đã nghe được từ Peggy và Jordan – anh tin rằng Marie đã dựng chuyện.
Hệ thống pháp luật Mỹ vốn có một lịch sử lâu dài về nỗi sợ cáo buộc sai tội hiếp dâm. Từ những năm 1600, Matthew Hale, một chánh án Anh, đã cảnh báo rằng tội hãm hiếp là “một tội trạng cáo buộc dễ dàng nhưng lại khó có thể chứng minh, và càng khó để bảo vệ bị cáo.” Cho đến những năm 1980 các thẩm phán ở Mỹ vẫn thường phải đọc “lời cảnh báo Hale” này cho bồi thẩm đoàn. Nhưng đa số các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng báo án tội hiếp dâm là tương đối hiếm. Số liệu của FBI cho thấy mỗi năm cảnh sát chỉ kết luận khoảng 5% các vụ hiếp dâm là vô căn cứ, hoặc vô lý. Các nhà khoa học xã hội sau khi rà soát tỉ mỉ các hồ sơ cảnh sát và sử dụng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về phương pháp cũng dẫn ra tỷ lệ tương tự: chỉ dừng ở một chữ số.
Sáng hôm sau, Mason đến nhà của Jordan để lấy lời khai. Jordan kể với vị điều tra viên rằng cậu và Marie đã ngừng hẹn hò vài tháng trước nhưng vẫn là bạn tốt. Theo tóm tắt bằng văn bản của Mason, Jordan không nói gì về việc nghi ngờ câu chuyện của Marie. Nhưng cậu có thuật lại những gì Marie đã kể với mình: rằng khi cố gắng gọi cậu vào sáng hôm đó, cô đã sử dụng ngón chân của mình, bởi vì cô bị trói.
Cuối ngày hôm đó – ngày 14 tháng 8, ba ngày sau khi Marie khai báo bị hãm hiếp – Mason gọi cho Marie, hỏi họ có thể gặp trực tiếp không. Anh nói mình có thể đến đón cô, đưa cô đến đồn cảnh sát.
“Tôi đang gặp rắc rối à?” Marie hỏi viên điều tra.
NGÀY 9 THÁNG 2 NĂM 2011
WESTMINSTER, COLORADO
Vào ngày 9 tháng 2 năm 2011, hơn chục cảnh sát cùng đặc vụ FBI và Cục Điều tra Colorado tập trung lại trong một phòng họp giao ban tại đồn cảnh sát Westminster để thảo luận về tình hình điều tra.
Tình hình đến nay không tốt lắm. Sau năm tuần đày ải, có rất ít đầu mối khả dĩ và không hề có nghi phạm nào. Các phân tích dấu vết DNA tiếp xúc chỉ cho ra kết quả hỗn độn. Các mẫu đã giúp thu hẹp đối tượng tình nghi là một nhóm những nam giới có cùng dòng họ bên nội. Nhưng vẫn không có đủ chất liệu di truyền để xác định cụ thể một cá thể. Do đó, kết quả này quá mỏng để có thể nhập vào cơ sở dữ liệu DNA toàn quốc của FBI, từ đó tìm kiếm những mẫu trùng khớp với nghi phạm.
Galbraith vẫn còn hy vọng. Ít nhất vụ án đã trở nên cụ thể. Nó có cùng một kẻ thủ ác. “Điều này cực kỳ quan trọng,” chị nói. “Nhưng vẫn chưa đủ.”
Khi cuộc họp sắp kết thúc, một nhà phân tích tội phạm trẻ tuổi của sở cảnh sát Lakewood đứng dậy phát biểu. Cô đã rà soát hàng loạt các cuộc gọi cảnh sát về những phương tiện hay người rình mò đáng ngờ trong bán kính một phần tư dặm từ căn nhà nạn nhân ở Lakewood trong sáu tháng qua. Cô phát hiện ra một chi tiết. Nhưng cô không biết nó có quan trọng không.
Ba tuần trước khi xảy ra vụ cưỡng hiếp ở Lakewood, một người phụ nữ đã gọi báo cảnh sát vào tối muộn về một chiếc xe bán tải đáng ngờ đậu bên đường, bên trong có một người đàn ông ngồi. Cảnh sát đã tới kiểm tra, nhưng người đàn ông đã biến mất. Các sĩ quan nộp lại một báo cáo mô tả ngắn gọn về chiếc xe này và vụ việc. Điều thu hút sự chú ý của nhà phân tích là vị trí của chiếc xe đó. Nó đậu cách nhà nạn nhân Lakewood chừng nửa dãy nhà, chỉ cách hiện trường một cánh đồng trống cạnh sân sau.
Chiếc xe bán tải đó là một chiếc Mazda màu trắng đời 1993.
Theo đăng ký, nó là của một người đàn ông ở Lakewood tên là Marc Patrick O’Leary.
Cuộc điều tra ngay lập tức chuyển sang tình trạng khẩn cấp. Liệu các điều tra viên có thể xác định mối liên hệ giữa chiếc Mazda của O’Leary với hình ảnh mờ nhoè của chiếc Mazda trắng trong đoạn video giám sát ở Golden? Aaron Hassell, điều tra viên trong vụ án Lakewood, chạy vội về văn phòng của mình. Đội xe tuần tra của Lakewood vốn được gắn các camera tự động chụp ảnh mọi biển số xe mà họ đi qua. Kết quả là một cơ sở dữ liệu cho phép tìm kiếm hàng ngàn biển số được ghi chép theo thời gian và vị trí. Hassell thử gõ số biển ghi trong bản báo cáo mới tìm ra: 935VHX. Anh thấy hiện ra một kết quả. Chiếc xe tuần tra ở Lakewood đã chụp một bức ảnh O’Leary đứng cạnh chiếc Mazda màu trắng của mình trước cửa nhà – chỉ hai giờ sau cuộc tấn công vào tháng 8 ở góa phụ ở Westminster.

[ẢNH] Xe bán tải Mazda 1993: Ảnh trích xuất từ camera giám sát cho thấy một chiếc Mazda năm 1993 lái xe quanh khu chung cư ở Golden, Colo., nơi một sinh viên kỹ thuật 26 tuổi bị cưỡng hiếp. Chiếc gương phía ghế hành khách trông như bị gãy. (Nguồn: Cục cảnh sát Golden)
Hassell gửi tấm hình cho Galbraith. Cẩn trọng, cô so sánh chiếc Mazda màu trắng của O’Leary với đoạn băng giám sát. Chị cho dừng hình ở một cảnh, nó cho thấy chiếc Mazda màu trắng trong đoạn băng hiện trường bị vỡ gương bên hành khách. Xe tải của O’Leary cũng vậy. Cả hai phương tiện đều có gắn khớp nối tròn ở đuôi. Cả hai đều có vết bẩn ở phía sau, cùng một vị trí – có lẽ là từ một miếng sticker dán đã bị xé ra.
“Đó chính là kẻ chúng ta đang tìm kiếm”, Galbraith nói.
Hendershot phát hiện xe tuần tra Lakewood đã chụp lại bức ảnh này khi O’Leary đang chuẩn bị đến một chi nhánh của Cơ quan quản lý các phương tiện (DMV) Colorado gần nhà. Hồ sơ ở DMV cho thấy O’Leary đã ngồi chụp ảnh chân dung cho giấy phép lái xe sau vụ tấn công ở Westminster khoảng bốn giờ. Trong bức ảnh là một người đàn ông cao 1m86 với đôi mắt màu lục nhạt. Anh ta 32 tuổi và nặng 100kg. Anh ta mặc áo phông trắng. Đặc điểm ngoại hình gần khớp với mô tả do các nạn nhân cung cấp. Và góa phụ ở Westminster đã nói với Hendershot rằng kẻ cưỡng hiếp bà mặc áo phông trắng khi tấn công mình.
Nhưng Hendershot không quá hấp tấp. “Tôi thấy lên tinh thần hẳn, tôi rất phấn kích,” chị nói. Nhưng “khi đó tôi vẫn chưa đưa ra kết luận vội, kiểu như yay, chúng ta đã tóm được anh.”
Trong 24 giờ sau đó, hơn chục điều tra viên cùng nhau dốc hết sức lực và kinh nghiệm để dò tìm mọi thông tin khả dĩ về O’Leary. O’Leary không có tiền án tiền sự. Anh ta không phải là một tội phạm tình dục có án tích. Anh ta từng phục vụ trong Quân đội.
Galbraith và chồng là David một lần nữa ngồi đối diện trên ghế dài trong phòng khách gia đình. Mỗi người ôm một chiếc laptop để dò mọi kết quả có nhắc đến O’Leary trên mạng, bằng công cụ tìm kiếm khác nhau. Không lâu sau, David mò được một đầu mối. O’Leary đã mua một trang web khiêu dâm vào tháng 9 năm 2008. Họ tự hỏi liệu trên đó có đăng tải hình ảnh các nạn nhân.
Các nhà điều tra quyết định thử lấy mẫu DNA của O’Leary. Mặc dù mẫu DNA phân rã thu được từ hiện trường vụ án không khớp hoàn toàn với DNA của O’Leary, nhưng nó cho thấy có khả năng một người đàn ông trong dòng họ của anh rất có thể đã thực hiện hành vi tội ác. Nếu các điều tra viên có thể loại trừ khả năng phạm tội của các thân nhân nam khác trong nhà O’Leary, họ có thể đưa O’Leary vào diện tình nghi với mức độ chắc chắn cao. “Chúng tôi vẫn phải xác định bằng đường chi tiết này.” Hendershot nói.
Sáng thứ Sáu, ngày 11 tháng 2, các đặc vụ FBI đang theo dõi nhà của O’Leary.
Đó là một ngôi nhà nhỏ, một tầng, mái xám. Nằm cách đó không xa là một trạm xăng, một cửa hàng phụ tùng xe ô tô và một lò mổ nằm giữa khu phố xập xệ. Một dãy hàng rào mắt sắt thấp bao quanh ngôi nhà. Những cây cao, mùa đông trơ trụi lá phủ bóng trên mái. Ngay đầu giờ chiều, các đặc vụ nhìn thấy một người phụ nữ và một người đàn ông trông giống như O’Leary ra khỏi nhà. Họ bám theo cặp đôi đi vào một nhà hàng gần đó và lặng lẽ quan sát cả hai dùng bữa. Khi cặp đôi rời đi, các đặc vụ lao vào nhà hàng. Họ chộp lấy cốc nước trên bàn. Các dấu môi sẽ có vết DNA của anh ta.

[ẢNH] Ngôi nhà O’Leary: Marc O’Leary sống cùng anh trai có ngoại hình rất giống anh. Nhưng các đặc vụ FBI đã không biết điều đó khi họ gõ cửa.
Trong khi các đặc vụ đang theo dõi người đàn ông được cho là Marc O’Leary, một nhân viên FBI khác đã đến gõ cửa ngôi nhà. Anh dự tính lắp đặt camera giám sát gần đó và muốn chắc canh tất cả đã đi vắng. Bất ngờ, một người đàn ông mở cửa. Anh ta trông giống y hệt Marc O’Leary. Bối rối, viên đặc vụ viện đến một cớ mẹo vốn được dùng nhiều lần. Anh nói với người đàn ông rằng mình đang đi quanh khu phố để cảnh báo về một vụ trộm trong khu vực. Người đàn ông tự giới thiệu bản thân. Anh ta tên là Marc O’Leary. Anh trai của anh ta, Michael O’Leary, vừa rời đi ăn trưa với bạn gái. O’Leary cảm ơn cảnh sát đã cảnh báo và đóng cửa lại.
Sự xuất hiện của Michael khiến sự việc trở nên rối rắm. Đội điều tra đã không biết rằng Michael sống với anh trai mình. Và cả việc hai người trông rất giống nhau. Họ quyết định cho kiểm tra DNA của Michael O’Leary thu thập từ chiếc cốc nhà hàng, đối chiếu nó với DNA được tìm thấy tại hiện trường các vụ án. Các nhà phân tích tại Cục Điều tra Colorado đã lấy mẫu. Thông thường, một phân tích DNA phải mất vài tháng. Nhưng trong trường hợp này, họ làm việc thâu đêm. Đến 2 giờ chiều ngày thứ Bảy, họ đã có kết quả. DNA từ chiếc cốc khớp với DNA thu thập được từ các nạn nhân. Một người đàn ông nhà O’Leary đã gây án. Nhưng là ai?
Galbraith loại trừ người cha của hai anh em – ông đã quá già và sống ở một bang khác. Nhưng các nhà điều tra chưa thể loại trừ Michael là nghi phạm. Có thể chính Michael đã phạm tội hiếp dâm. Hay thậm chí là Michael và Marc đã thông đồng cùng nhau. Họ cần thêm thông tin.
Galbraith vội vàng gõ lệnh khám xét nhà của anh em. Bên ngoài trời đã tối. Chị gọi điện cho vị thẩm phán trực vào cuối tuần để xin phê duyệt. Ông ta khăng khăng đòi một bản fax. Galbraith lao đến một cửa hàng Safeway gần nhà để gửi lệnh khám. Vị thẩm phán ký nó vào 10 giờ tối thứ bảy.
Galbraith biết chính xác mình cần tìm kiếm điều gì. Chị tin tưởng vào trí nhớ nạn nhân của mình. Là vết chàm đen trên chân hắn.
Chị gửi email cho một nhà phân tích tội phạm tại một sở cảnh sát khác, “Tôi rất cần nhìn thấy cẳng chân của người đàn ông này! CỰC KỲ CẦN.”